* MINH DIỆN
BVB - Năm 1992, tôi viết bài báo “Chuyện làng Lòi” , kể về thân phận những nữ Thanh niên xung phong trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ở quê tôi. Đó là những người hiến trọn tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, hòa bình về quê, bị lỡ lứa lỡ thì, dở dang đời thanh nữ; có người đành kiếm một đứa con an phận. Nhưng các chị bị dư luận xã hội dị nghị, nên phải rủ nhau nhau ra bãi bồi ven sông lập một cái làng nhỏ, lam lũ làm ăn, đùm bọc lấy nhau sống quãng đời còn lại.
Một tuần sau khi đăng bài báo ấy, Trần Thu Hồng, một cán bộ ở Công ty lương thực thành phố Hồ Chí Minh tới gặp tôi, trao tận tay 5.000.000 đồng. Thu Hồng nói: “ Đọc bài báo của anh, em thương các chị làng Lòi quá. Đây là tiền riêng của em gửi tặng các chị. Anh trao cho các chị giúp em và cho em gửi lời thăm các chị!”. Tôi nói sẽ đăng tin Thu Hồng gửi tiền cho chị em làng Lòi trên báo Tiền Phong, Thu Hồng lắc đầu: “ Đừng, việc em làm thấm gì với các chị ấy!”. Bấy giờ, năm triệu đồng rất lớn, và đối với các cựu thanh niên xung phong làng Lòi đang hết sức khó khăn, thì tình cảm và vật chất mà Thu Hồng dành cho họ không gì sánh được. Vì vậy khi vào miền Nam công tác, Anh hùng quân đội Trịnh Tố Tâm, Bí thư trung ương đoàn, đã bảo tôi đưa tới gặp Trần Thu Hồng, để anh thay mặt chị em cựu thanh niên xung phong trực tiếp cảm ơn chị.Tôi quen thân Trần Thu Hồng và chồng chị, nhà thơ Đỗ Nam Cao từ đó.
Trần Thu Hồng sinh ra và lớn lên ở huyện Điện Bàn, Quảng Nam , gọi Trần Thị Lý, người con gái mà nhà thơ Tố Hữu đã ca ngợi : “Điện giật dùi đâm dao cắt lửa nung. Không giết được em người con gái anh hùng !” bằng cô. Năm mười tuổi Thu Hồng theo các chú các anh hoạt động cách mạng, và năm 1968, mới mười ba tuổi, Thu Hồng bị chính quyền miền Nam bắt giam ở nhà tù Non Nước , Đà Nẵng sau đó đưa ra nhà tù Phú Quốc, năm 1973, được trao trả ở sân bay Lộc Ninh.
Trong số nhà báo đi đón tù nhân ngày ấy có một phóng viên trẻ tên là Đỗ Cao Sơn, bút danh Đỗ Nam Cao. Đỗ Nam Cao sinh ra và lớn lên ở làng Liên Hòa, Phú Xuyên, Hà Tây , tốt nghiệp khóa 12, khoa ngữ văn Đại học tổng hợp Hà Nội , sau đó học Trường viết văn Quảng Bá của Hội nhà văn Việt Nam, cùng những cây bút tài năng như Bế Kiến Quốc, Nguyễn Thị Kim Cúc, Vũ Ân Thi, Nguyễn Thị Hồng, Lê Quang Trang. Năm 1971, Đỗ Nam Cao vào chiến trường miền Đông Nam bộ , trực tiếp cầm súng và cấm bút trên các vùng đất nóng bỏng lửa khói Củ Chi, Bến Cát,Dầu Tiếng...
Lần đầu tiên gặp nhau ở sân bay Lộc Ninh, Đỗ Nam Cao đã bị cô tù nhân Trần Thu Hồng hút mất hồn! Hình như đòn roi và chế độ hà khắc của nhà thù không đủ sức làm thui chột tuổi xuân mười bảy cùa cô gái xứ Quảng! Khuôn mặt tròn trịa, đôi mắt đen láy dưới cặp lông mày nét ngang và mái tóc xanh mượt, Thu Hồng toát lên vẻ đẹp hồn nhiên và trong sáng .
Nhà thơ Đỗ Nam Cao |
Đỗ Nam Cao viết những bài báo về những năm tháng chiến đấu ở chiến trường cũng như trong lao tù của Thu Hồng và làm thơ tặng cô. Tình yêu của họ bắt đầu từ đó. Khi Thu Hồng ra Bắc an dưỡng và học văn hóa, từ chiến trường miền Nam, Đỗ Nam Cao tìm mọi cách gửi áo ấm và những lá thư động viên an ủi người yêu.
Ngày Sài Gòn giải phóng họ gặp lại nhau,và lễ cưới được tổ chức trong niềm vui chung cùa gia đình , bạn bè. Niềm vui được nhân lên, khi tập thơ đầu tay “Những cánh cò lửa” của Đỗ Nam Cao ra mắt bạn đọc và sau đó cô con gái đầu lòng của anh chào đời.
Ai cũng nghĩ những cánh cò sẽ mãi mãi bay lượn trên cánh võng đứa con gái xinh đẹp , và ngọn lửa tình yêu sẽ ấm mãi gia đình nhà thơ Đỗ Nam Cao, không ngờ bi kịch đã giáng xuống đầu họ.
Đang làm cán bộ tổ chức ở Quận ủy quận 1, Trần Thu Hồng được điều về Công ty lương thực thành phố Hổ Chí Minh, do bà Nguyễn Thị Ráo, tức Ba Thi làm giám đốc. Ngày ấy cái tên Ba Thi nổi tiếng khắp ba miền. Bà từng “vác rá đi xin” từng lon gạo, cân thịt cho thành phố thời bao cấp. Bà là một người liêm khiết, hết lòng vì dân, xốc vác dám nghĩ dám làm, được lãnh đạo các cấp hết sức tin tưởng, nhưng bà quá tự tin đến duy ý chí. Bà phóng tay mở ra nhiều dự án ngoài khả năng quản lý của mình, để cho những kẻ cơ hội lợi dụng...
Là một cán bộ trẻ, năng nổ, Trần Thu Hồng trở thành cánh tay đắc lực của giám đốc Ba Thi, thực các dự án phát triển như một cơn lốc của bà. Những khách sạn, nhà hàng, khu du lịch, khu công nghiệp mọc lên. Các liên doanh , liên kết mở rộng từ Nam ra Bắc. Chỗ nào cũng có bóng dáng Trần Thu Hồng. Thu Hồng xông xáo như con thoi, thực hiện những nhiệm vụ bà Ba Thi giao. Người yêu nhiều , kẻ ghen ghét cũng lắm. Người ta ai cũng muốn nhiều hơn cái họ cần! Trần Thu Hồng rơi vào vũng xoáy quyền lực , tiền bạc và đố kỵ lúc nào không hay.
Công ty lương thực thành phố Hồ Chí Minh lao xuống vực ,ví thua lỗ do đều tư tràn lan. Tất cà tội lỗi đổ lên đầu “cái con Hồng” dù không phát hiện Trấn Thu Hồng tham nhung đồng nào. Trần Thu Hồng phải trả giá thay cho giám đốc Ba Thi. Người ta không thể hạ bệ một thần tượng,nên phải thí tốt, dù đó là con tốt đỏ như Trần Thu Hồng. Cô bị bắt và bị tuyên án tử hình rồi giảm xuống chung thân.
Đó là những ngày kinh khủng nhất của Trần Thu Hồng. Cô tuyệt vọng, có lúc hoảng loạn như bị tâm thần. Mới trước đó báo đài hết lời ca ngợi, bạn bè không đếm hết, có những người nhận chị, nhận em săn đón ân cần hơn ruột thịt. Bây giờ , nhiều tờ báo và nhà báo ca ngợi cô ngày trước, quay ngoắt lại xỉa xói, moi móc,và những người anh, người em ân cần ngày trước cũng tránh xa, chỉ còn lại một vài người bạn chưa hề lợi dụng cô , và người chồng có thời kỳ cô ly thân, ở bên cạnh chăm sóc sức khỏe, an ủi tinh thần và gỡ oan trái giúp cô. Một lần vợ chồng tôi tới thăm Thu Hồng trong phòng giam, nhìn cô tiều tụy , vợ tôi không cầm được nước mắt. Trần Thu Hồng khóc nói với chúng tôi: “ Em thương anh Cao quá anh chị ơi! Anh ấy khổ vì em. Em đã có lỗi với anh ấy!”.
Qủa thật hiếm có người chồng nào giàu lòng vị tha và cao thượng như Đỗ Nam Cao. Anh quên hết chuyện cũ, bỏ ngoài tai mọi lời ong tiếng ve, dồn hết tình cảm và lý trí chăm sóc và minh oan cho vợ. Hết ngày này đến ngày khác, hết tháng này đến tháng khác, đằng đẵng suốt mười năm trời , người đàn ông có vóc dáng lênh khênh, mái tóc xòa ôm lấy khuôn mặt thi sỹ ấy, không ngơi nghỉ một ngày nào. Anh vừa làm việc kiếm đồng lương nuôi con, vừa đi gõ khắp các cửa từ Nam ra Bắc. Luât sư Phan Trung Hoài đã phải thốt lên : “ Tôi không ngờ anh Đỗ Nam Cao sắt đá đến thế. Anh không chịu lùi bước trước bất kỳ trở lực nào!”
Trong những tháng ngày ấy có hai “người bạn” gắn bó với Đỗ Nam Cao như bóng với hình , là rượu và thơ. Rượi giúp anh khuây khỏa, thơ giúp tâm hồn anh bình lặng, không hoảng loạn, không quắt quay ! Bên chén rượu khuya, Đỗ Nam Cao viết những câu thơ trên vỏ bao thuốc lá:
Cái thời thiếu vắng hơi ấm lửa.
Ta ngỡ ta sống nửa tâm hồn,
Ta ngờ luôn nửa hồn ta còn lại!
Và:
Những chiếc lá bàng rơi màu đỏ thắm,
Anh cầm mà không thể buông ra!
Sau mười năm, nỗi oan ức được làm sáng tỏ, Trần Thu Hồng được trả lại những quyền lợi chính đáng. Cái quý giá nhất đối với Trần Thu Hồng bây giờ không phải là của cải vật chất , mà là tình yêu người chồng Đỗ Nam Cao đã giành cho chị. Nhà báo, nhà thơ chiến sỹ ấy đã với trái tim sắt đá, đã vắt kiệt sức mình đề giữ ngọn lửa tình yêu mà anh thắp lên giữa sóng gió cuộc đời.
Nhà báo nhà thơ Đỗ Nam Cao bị bệnh ung thư gan, có lẽ do anh uống nhiều rượu trong những năm tháng đau buồn . Anh đã ra đi vĩnh viễn vào ngày 8-11-2011 , nhưng ngọn lửa tình yêu của anh vẫn cháy:
Làng ơi!
Cúi lạy Thành Hoàng
Cho con được phép khẽ khàng thăm quê
Ngõ quen trâu dẫn lối về
Vườn xưa mất dấu trăng thề vườn xưa...
Và:
Tôi ôm con ghì Trường Sa vào ngực
Bãi đá ngầm cào rách thịt da tôi!
Mọi thứ đều tàn lụi, nhưng tình yêu thì không. Đỗ Nam Cao đã giành trọn vẹn tình yêu cho vợ con và quê hương xứ sở, và vì thế, tuy không phải là một người nổi tiếng, anh vẫn được trân trọng và sống trong tim bè bạn và mọi người!
M.D
----------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét