* NGUYỄN TRUNG
(tiếp theo)
... + Vấn đề (2) – vấn đề quân sự
Trong thời bình, không có yêu cầu tiến hành một cuộc chiến tranh nào, nhưng lại bị thôi thúc bởi đòi hỏi chớp lấy cơ hội chấm dứt thời kỳ giấu mình chờ thời để mau chóng vươn lên siêu cường, tận dụng xu thế siêu cường Mỹ ngày càng yếu đi và sa lầy vào nhiều vấn đề lớn, tận dụng khoảng thời gian các cường quốc khác còn đang bận rộn với khủng hoảng kinh tế trầm trọng mang tính cơ cấu chưa có lối ra.., Trung Quốc từ hai thập kỷ nay ráo riết tăng cường tiềm lực quân sự của mình - song song với bành trướng quyền lực kinh tế và quyền lực mềm ở phạm vi toàn cầu.
Ngân sách quốc phòng của Trung Quốc năm 2000 là 30 tỷ USD, năm 2010 vọt lên 120 tỷ USD, năm 2012 là 160 tỷ USD (nghĩa là liên tục hàng thập kỷ tăng trưởng 2 con số/năm) – đấy là theo số liệu được chính phủ công bố, người ta cho rằng con số thực còn cao hơn. Quân số của Giải phóng quân Nhân dân (PLA) hiện nay là 2,3 triệu, đông nhất thế giới. PLA được hiện đại hóa rất nhanh; trang bị vũ khí, khí tài chỉ đứng sau Mỹ và Nga. Tuy nhiên giới nghiên cứu hầu như có nhận xét thống nhất: Thời điểm Trung Quốc có thể thách thức Mỹ và Nga về quân sự còn xa, (có người cho rằng khoảng cách này giữa Trung Quốc và Mỹ là 20 – 30 năm).> Phần 1 ; Phần 2 ; Phần 3 ; Phần 4
Hiện nay hầu như chưa có khả năng Trung Quốc có thể thách thức trực tiếp Mỹ hay Nga bằng quân sự ở bất kỳ nơi nào. Đụng độ tranh chấp biên giới Trung - Ấn vẫn là nguy cơ thường trực, song ngày nay tiềm lực quốc phòng của Ấn-độ và tương quan lực lượng so sánh khác trước rất nhiều so với thời kỳ xảy ra chiến tranh biên giới năm 1962, hơn nữa thế giới ngày nay đã thay đổi. Tranh chấp Trung – Nhật tại Hoa Đông và đảo Senkaku / Điếu ngư dù căng thẳng thế nào, có lẽ vẫn rất ít khả năng nổ ra chiến tranh hay đụng độ quân sự trực tiếp Trung – Nhật/Mỹ; bởi vì không thể đánh giá thấp sức đề kháng của Nhật với sự hậu thuẫn trực tiếp của Mỹ.
Trong khi đó áp lực quân sự của Trung Quốc đang nhằm vào hướng chính là các nước láng giềng Đông Nam Á.
So sánh những gì đã xảy ra ở 2 vùng Hoa Đông và Scarborough / Hoàng Nham, kết hợp với đánh giá so sánh lực lượng tổng thể toàn khu vực Biển Đông, không loại trừ tình huống: Trung Quốc tuy gây áp lực quyết liệt với Nhật ở Hoa Đông để uy hiếp, song có thể đòn tấn công chính, hay là từng đòn tấn công chính của Trung Quốc trước hết vẫn là dành cho phía Nam. Tuy nhiên, Trung Quốc có dám đánh lớn trên Biển Đông hay không, điều này còn tùy thuộc vào thái độ ứng xử của từng nước hoặc cả nhóm ASEAN. “Mềm nắn, rắn buông”, đấy thường là tâm lý phổ biến của mọi kẻ xâm lược. Mối nguy tiềm ẩn khó khắc phục hơn của ASEAN là sự nhất trí rất có giới hạn của nhóm nước này trong đối phó với Trung Quốc[38].
Hiện nay, đánh giá tình hình so sánh lực lượng tại chỗ trên Biển Đông, đánh giá những phản ứng dây chuyền có thể xảy ra ở từng nước bị tiến công, phản ứng dây chuyền có thể xảy ra ở trong và ở ngoài khu vực, thậm chí trên toàn thế giới… một khi Trung Quốc tiến hành đánh lớn trên Biển Đông, có thể phán đoán: quyết định đánh lớn như vậy đối với Trung Quốc có lẽ cũng không dễ dàng gì, chưa hẳn là cần thiết, trong khi đó Trung Quốc có những thủ đoạn khác rẻ hơn, hữu hiệu hơn.
Bởi vì: Xem xét toàn cục, trận đánh lớn có thể thắng, nhưng làm chủ được những hệ quả tiếp theo thì không hẳn; bản thân Trung Quốc đã có nhiều kinh nghiệm này[39]. Bối cảnh Đông Nam Á - Biển Đông trong cục diện quốc tế hiện nay cho thấy đánh lớn rất ít khả năng giải quyết gọn những vấn đề có liên quan. Vì thế nhìn tổng thể, chung cuộc đánh lớn có thể mang về bại nhiều hơn thắng. Cho đến nay lực của Trung Quốc hoàn toàn cho phép đánh lớn trên Biển Đông (nhằm vào các nước láng giềng), song điều này chưa xảy ra, có lẽ chỉ vì những lý do như vậy.
Trong khi đó Trung Quốc đang có chiến thuật gặm nhấm rất hiệu quả, có cơ hội lại ào lên cắn trộm (1988, 1995…), rồi lại gặm nhấm tiếp. Mấy thập kỷ nay chiến thuật này giành kết quả tốt, rủi ro ít, đỡ ồn ào, vẫn đạt mục tiêu và uy hiếp được đối phương... Càng tác động được quyền lực mềm vào từng nước ASEAN, càng phân hóa được nhóm ASEAN theo thủ đoạn bẻ từng que đũa của bó đũa (chỉ chấp nhận đàm phán song phương), càng chia rẽ được ASEAN với thế giới bên ngoài, hiệu quả của chiến thuật gặm nhấm càng cao. Có lẽ chiến thuật này – cùng với tác động của những thủ đoạn chính trị lung lạc đi kèm, tiếp đến là các thủ đoạn “xâm lăng không vũ khí” bằng các đợt cho hàng trăm tầu cá lấn biển, kết hợp với các biện pháp kinh tế khác, kết hợp với tác động của thời gian (gây mất ổn định và kìm hãm sự phát triển của các nước ASEAN…)… Đấy mới là những đòn nguy hiểm hơn cả cho các nước ASEAN – trước hết là cho Việt Nam và Philippines .
Thực tế đã diễn ra là: Ngoài việc lập thành phố Tam Sa và đặt căn cứ cho quân đồn trú thường trực ở Hoàng Sa, đến nay Trung Quốc đã xây dựng xong những công trình cố định mới trên các đảo, các bãi ngầm và các rặng san hô ở Trường Sa do Trung Quốc đánh chiếm trong các đợt 1988 (gồm 7 đảo và bãi), đợt 1995 (gồm Đá Vành Khăn và một số bãi). Tại những điểm này Trung Quốc đã xây xong các căn cứ đóng quân cố định, căn cứ nổi, ụ pháo, đài quan sát, vạch ra tuyến đường tuần tra cho hạm đội hải giám (tổng cộng 11 đội tầu với 16.000 quân)… để hoạt động thường xuyên, qua đó nhằm khẳng định trên thực tế chủ quyền “đường lưỡi bò”… Không thể nói khác: Một cuộc xâm lược âm ỷ, bền bỉ năm này qua năm khác, vũ trang xen kết phi vũ trang, để gặm nhấm tiếp, để leo thang tiếp, hình thành dần dần một hành lang án ngữ trực tiếp trên biển đối với Việt Nam và Philippines , tiến tới khống chế toàn vùng... Chiến thuật này đang rất hữu dụng, chưa có các yếu tố nào mới khiến Trung Quốc phải thay đổi. Trong khi đó phản ứng đơn phương hay đa phương của các nước nạn nhân ở mức như hiện nay không thể chặn đứng hay đẩy lùi được chiến thuật gặm nhấm này. Để lâu e rằng sẽ là chuyện đã rồi!
Nhưng trong trường hợp nhất định, ví dụ một biến cố lớn bất thường xẩy ra ở bất kỳ đâu trên thế giới, kể cả trong lòng Trung Quốc, hay là ở một nước là đối tượng xử lý (ví dụ quốc gia này lâm vào tình trạng khủng hoảng bất thường),.. khả năng Trung Quốc đánh lớn trên Biển Đông là không thể không tính đến. Cuộc chiến tranh 30 ngày năm 1979 của Trung Quốc chống Việt Nam là một ví dụ thuyết phục.[40]
Hiển nhiên, thế giới ngày nay không hiếm những biến cố lớn bất thường rất quyến rũ. Hiện tại có thể liệt kê ra cả một danh sách dài:
- giả định Mỹ tuột tay trong dàn xếp những mâu thuẫn Israel – Palestin;
- mâu thuẫn Israel – Iran bùng nổ;
- nguy cơ vấn đề sản xuất vũ khí A của Iran hay Bắc Triều Tiên vượt ra ngoài mọi khả năng kiểm soát của thế giới;
- Al-Qeada có thể bất ngờ tổ chức tấn công lớn vào Mỹ hoặc các nước phương Tây, khiến cho sự quan tâm của Mỹ bị phân tán;
- nguy cơ đồng Euro sụp đổ;
- một tính toán sai lầm nào đó của Trung Quốc hay của bất kỳ ai (ví dụ những động thái rất nguy hiểm trong năm nay của Bắc Triều Tiên…);
- những yếu kém của đối tượng được dự định tấn công;
- vụ sử dụng vũ khí hóa học ở Syri có thể mở ra một bước ngoặt bi thảm;
- vân vân…
Có thể kết luận: So với Mỹ và đồng minh phương Tây, lực lượng tiến hành chiến tranh của Trung Quốc không mạnh bằng, hay chưa mạnh như các phát ngôn của giới diều hâu trong hàng ngũ tướng lĩnh Trung Quốc phô trương. Tuy nhiên, lực lượng tiến hành chiến tranh của Trung Quốc mạnh áp đảo so với các nước láng giềng phía Đông và Đông Nam Á, đã có những hoạt động đủ nguy hiểm, đến mức Mỹ phải nhiều lần chính thức cảnh báo: Trung Quốc đang đẩy Biển Đông đi vào chiến tranh.
Muốn hay không, các nước láng giềng của Trung Quốc đang rơi vào một cuộc chạy đua với thời gian: Hoặc là kịp tạo ra sức mạnh vượt lên những thách thưc mới đặt ra từ phía Trung Quốc, hoặc bị những thách thức mới của Trung Quốc vượt qua.
Tóm lại, về nhiều phương diện như đã trình bầy trên, bao gồm cả những hạn chế ban đầu không thể tránh khỏi, siêu cường đang lên Trung Quốc buộc phải lựa chọn Đông Nam Á là địa bàn chính cho việc bành trướng quyền lực. Mỹ nhất thiết phải tiến hành chiến lược “pivot to Asia & Pacific” và TPP để kiểm soát tình hình. Thực tế này sẽ tạo ra những nhân tố căng thẳng mới trong khu vực. Không phải ngẫu nhiên Mỹ coi Đông Nam Á là trọng tâm trong những nỗ lực chuyển hướng mới của mình.
Gần đây nhất, nghĩa là chỉ ít lâu sau vòng đối thoại kinh tế & chiến lược lần thứ 5 (Obama – Tập Cẩm Bình ngày 7 và 8-06-2013), tổng thống Obama ngày 11-07-2013 đã lên tiếng phê phán những hoạt đông nguy hiểm của Trung Quốc ở Biển Đông và Hoa Đông, đòi Trung Quốc phải giải quyết những tranh chấp bằng thương lượng hòa bình và tuân thủ luật pháp quốc tế. Tiếp đến là Thượng viện Mỹ ngày 03-08-2013 thông qua nghị quyết 167 lên án Trung Quốc cùng nội dung, thúc giục Trung Quốc phải sớm tham gia COC[41].
Trung Quốc phản pháo lại rất gay gắt: “Trung Quốc không bao giờ từ bỏ các quyền và lợi ích chính đáng của mình trên biển, không bao giờ hy sinh lợi ích quốc gia cốt lõi của mình… Trung Quốc sẵn sàng đối phó với mọi diễn biến phức tạp, tăng cường khả năng bảo vệ các quyền và lợi ích của mình trên biển, kiên quyết bảo vệ các quyền và lợi ích của mình trên biển…’’ Tập Cẩm Bình nhấn mạnh như thế với hàm ý muốn làm cho mọi người hiểu: chỉ có “thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc, gác tranh chấp, cùng khai thác” là lối ra… (Reuters 31-07-2013). Phát biểu của Tập Cẩm Bình 31-07-2013 là nhiệt kế đo điểm nóng nguy hiểm trên Biển Đông.
Xin đặc biệt lưu ý: Mỹ chuyển hướng chiến lược vào CA-TBD / ĐNA là nhân tố kiềm chế quan trọng tham vọng bá quyền Biển Đông của Trung Quốc. Tuy nhiên, Mỹ kiên định sự chuyển hướng này đến đâu, còn phụ thuộc không ít vào ý chí và sự hợp tác giữa các nước ASEAN với nhau, vào ý chí của nhóm nước này dấn thân cho hòa bình, cho bảo vệ chủ quyền và các quyền lợi chính đáng của mình trên Biển Đông. Không có bất cứ cái gì “free lunch” cho các quốc gia Đông Nam Á trong toàn bộ câu chuyện Biển Đông. Không phải không có lý do, ngay từ đầu Mỹ tuyên bố đòi phải bảo đảm lưu thông tự do trên Biển Đông, mọi tranh chấp phải giải quyết bằng thương lượng trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhưng nói rõ Mỹ không can thiệp vào tranh chấp biển – đảo.
VI - Siêu cường Trung Quốc không thể lãnh đạo thế giới
Vào khoảng giữa thế kỷ này hoặc sớm hơn chút ít Trung Quốc có thể trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, điều này là hiện thực. Nhưng cũng trong khoảng thời gian dự đoán được như thế hoặc xa hơn chút nữa, hầu như chắc chắn không thể có một siêu cường Trung Quốc lãnh đạo thế giới hay sắm vai trò số 1 như Mỹ đang làm.
Sau đây là một số lập luận chính cho nhận định nói trên.
Một là: Trước hết lịch sử thế giới chưa từng có một siêu cường nào đủ quyền lực lãnh đạo cả thế giới. Trong lịch sử thế giới cận đại và trong nấc thang phát triển của thế giới hiện tại lại càng không! Thế giới dù phải sống trong một trật tự chung nào đấy của quá trình toàn cầu hóa, song vẫn là phân ra thành các mảng lớn khác nhau. (Cũng có thể nói theo cách khác: Thế giới ngày nay quá trưởng thành để chấp nhận một sự lãnh đạo nào đó của một ai, dù đấy là siêu cường Mỹ).
Lịch sử thế giới không thiếu những khát vọng điên cuồng muốn làm như thế, nhưng đều thất bại. Thời chúng ta đang sống, có thể tổng thống Bush ít nhiều đã mơ ước cái gì đó to tát na ná như điều này - vì những lý do dễ hiểu đã xuất hiện trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh và sau sự kiện 11-09-2001. Song phải chăng chính mơ ước này đã dẫn tổng thống Bush đến chiến tranh Iraq (2003 – 2010) và chung cuộc chịu thất bại trong chiến tranh này?
Cho đến nay, nhất là trong nấc thang văn minh của thời đại ngày nay, chỉ có tư tưởng nhân văn cùng với các giá trị nổi bật của nó mới có thể có tác động nhất định vào quá trình hình thành xu thế phát triển, hay là trở thành tinh thần hướng dẫn, hấp dẫn xu thế phát triển của thế giới – được gọi dưới cái tên chung là các giá trị toàn cầu. Ở nấc thang phát triển của thế giới hôm nay, chính xu thế này vừa ngày càng trở thành nguồn gốc sức mạnh, vừa trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng của hầu hết các nước phát triển. (Điều này hoàn toàn khác với tất cả những gì được mô tả trong cái gọi là “xu thế tất yếu của thời đại là tiến lên chủ nghĩa xã hội” và được minh họa bằng sự tồn tại và phát triển của 4 nước XHCN còn sót lại như đang được giảng giải trong các trường đảng ở nước ta, trong một số giáo trình chính trị và trong không ít phát biểu của một số người lãnh đạo).
Đối với một quốc gia cũng như một dân tộc, một con người trong thế giới văn minh ở trình độ phát triển hôm nay, nhận thức đầy đủ sự thật nêu trên như một chân lý và các giá trị toàn cầu là điều vô cùng quan trọng cho việc tự định đoạt số phận và tương lai của chính mình[42].
Hiển nhiên Trung Quốc hôm nay không thể đề ra được bất kỳ tư tưởng, quan niệm hay giá trị nổi bật nào có sức hấp dẫn hay là tác động tích cực vào xu thế phát triển của thế giới. Thậm chí Trung Quốc cũng không đứng trong hàng ngũ các nước đi tiên phong theo đuổi những giá trị toàn cầu ngày nay. Giá trị mà Trung Quốc muốn là chính nước Trung Quốc sẽ định hướng những quan niệm và giá trị của thế giới, chứ không phải ai khác… (“Giấc mơ Trung Quốc” – Lưu Minh Phúc, Đại học Quốc phòng, Bắc Kinh).
Văn hóa Trung Quốc nói chung, nền văn minh Trung Hoa rực rỡ một thời nói riêng, có những đóng góp quý báu vào kho tàng văn minh nhân loại, trong đó có những giá trị phổ cập đóng góp vào những giá trị chung của chân - thiện - mỹ. Ví dụ, những giá trị như nhân – nghĩa – lễ - trí – tín ngày nay vẫn là những giá trị bền vững trong đạo đức học (ethic). Dĩ nhiên, những giá trị này cũng nằm trong những giá trị nhân bản phổ cập của nhân loại từ ngàn xưa, được văn hóa Trung Quốc – trước hết là Khổng giáo – quan tâm đúc kết, và không tránh khỏi thấm nhuộm màu sắc văn hóa Trung Quốc. Nội hàm của các giá trị bao giờ cũng thường xuyên phát triển trong sự phát triển chung của văn minh nhân loại qua các thời đại.
Song văn hóa đại Trung Hoa với khát vọng lấy lại 5 thế kỷ đánh mất, cùng với mọi chuẩn mực gói ghém trong phạm trù “chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc” đang làm nên cường quốc Trung Quốc hôm nay, hiển nhiên rất khác, rất khó hòa nhập, hoặc thậm chí hàm chứa không ít mâu thuẫn đối kháng với những gì nằm trong các giá trị toàn cầu đang thôi thúc sự phát triển của văn minh nhân loại.
Văn hóa đại Trung Hoa như vậy cùng với những chuẩn mực làm thành nội hàm của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc có thể đang làm nên “giấc mơ Trung Quốc” hôm nay của không ít người Trung Quốc. Người ta nói ông Tập Cẩm Bình đã từng diễn giải ngắn gọn giấc mơ này như sau: Đó là một Trung Quốc của tầng lớp trung lưu nhỏ và có quân đội mạnh chống lại bất kể kẻ thù nào… (Willy Lam)[43]…
Rõ ràng giấc mơ Trung Quốc như thế rất khác với “giấc mơ Mỹ” như Obama đã nhiều lần đề cập khi tranh cử, và càng khác với những quan niệm và các giá trị toàn cầu đang hướng dẫn hay hấp sự phát triển của văn minh nhân loại ngày nay như đã trình bầy trong các phần trên của bài viết này...
(còn tiếp)
------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét