Posted on September 20, 2013
Trong những ngày qua tôi đã ỏ Praha để dụ một workshop về chính trị ở Việt Nam . Ban đầu mình tự hỏi, làm sao mà có một hội thảo như thế ở một nơi rất xa Việt Nam . Praha năm 2013 đâu có liên quan gì với Việt Nam !
Nhưng, sau vài ngày suy nghĩ, tìm hiểu thêm về lịch sử đương đại của Tiệp, đi bộ trên những đường phố của thành phố xinh đẹp, và trao đổi với người dân Tiệp (trong đó có người Việt) tôi cũng suy nghĩ về sự liên quan của những gì đã xảy ra ở đây cách đây chưa lâu.
Nếu như Tiệp đã có chuyển đổi một cách ôn hòa thì có những bài học gì cho Việt Nhưng, sau vài ngày suy nghĩ, tìm hiểu thêm về lịch sử đương đại của Tiệp, đi bộ trên những đường phố của thành phố xinh đẹp, và trao đổi với người dân Tiệp (trong đó có người Việt) tôi cũng suy nghĩ về sự liên quan của những gì đã xảy ra ở đây cách đây chưa lâu.
* * *
Kính chào giáo sư
Rất vui lại được tâm sự cùng ông, trong bài viết ông có đề cập đến cách thức giải quyết các vấn đề đã tồn tại trong quá khứ ở các thể chế độc tài và độc đoán khi các thể chế này chuyển sang mô hình dân chủ. Đây là một vấn đề rất quan trọng. Trong quá khứ, khi mô hình Xã hội chủ nghĩa có những dấu hiệu suy thoái và sụp đổ tại Đông Âu. Các nước này đã có nhiều giải pháp thích hợp. Các cuộc đối thoại đã diễn ra giữa các nhà dân chủ và trí thức tiến bộ với các lãnh đạo cộng sản. Nhiều cuộc đối thoại bàn tròn đã diễn ra ở Ba Lan, Hungari, Tiệp… Kết quả là quá trình chuyển giao quyền lực diễn ra khá êm đẹp, các ghế tại Nghị viện được chia cho các đảng viên cộng sản và các nhà dân chủ, nhiều đảng viên tiếp tục giữ các chức vụ quan trọng. Trường hợp đáng tiếc duy nhất là Roumani, quá trình chuyển giao quyền lực đã diễn ra trong bạo lực và phải mất một khoảng thời gian dài tình hình mới ổn định trở lại.
Khi đó tại các nước Đông Âu, có hai khuynh hướng khác nhau, một số người mong muốn phải đưa ra ánh sáng những sai lầm của các nhà lãnh đạo thân Liên Xô, một số khác không muốn nhắc lại quá khứ, vì theo họ, nhiều người đảng viên đã tham gia vào hội nghị bàn tròn, và đóng góp quan trọng vào quá trình cải cách chính trị, hơn nữa nhiều người vẫn còn giữ vai trò lãnh đạo. Hai quan điểm này đều có cơ sở, nhưng quan trọng hơn cả là tìm được sự đồng thuận.
Nếu ví dụ, Việt Nam một ngày không xa, cũng sẽ có sự hợp tác giữa các nhà lãnh đạo và những người có quan điểm cấp tiến để cùng nhau bàn bạc tìm ra giải pháp cho đất nước, khi đó vấn đề quá khứ cũng sẽ được bàn đến. Rất có thể cũng sẽ có hai khuynh hướng như vậy. Lúc đó người Việt Nam sẽ phải giải quyết thế nào? Theo quan điểm riêng của tôi, người Việt Nam cần tuân theo những giá trị đạo lí của cha ông chúng tôi, đó là sống nhân ái, biết bỏ qua mọi sai lầm và tha thứ, như lời thi hào Nguyễn Du khuyên “Thiện căn ở tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, hay như câu ca dao “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”. Người Việt Nam không được phép có bất cứ sai sót nào nữa, nếu không lịch sử sẽ lại lặp lại như cũ. Nhưng khi một thể chế dân chủ được thiết lập, phải chăng,
Nhà nước mới sẽ không nói gì về quá khứ, theo tôi, các nhà lãnh đạo sau này vẫn phải thay mặt Nhà nước, xin lỗi nhân dân, xin lỗi các nạn nhân, thừa nhận những thiếu sót để không bao giờ mắc phải nữa. Luật hành chính ở Pháp thừa nhận lỗi của Nhà nước và lỗi của các cá nhân. Khi một người thực thi chính sách của Nhà nước, nếu chính sách đó sai và gây nhiều hậu quả, Nhà nước phải có trách nhiệm xin lỗi người chịu thiệt hại và bồi thường cho họ và người thân. Nước Pháp đã thừa nhận nhiều sai sót trong các chính sách của mình như việc hợp tác với Đức quốc xã, việc chuyển nhiều người Do thái đến các trại tập trung…
Nước Nga cũng thừa nhận nhiều sai sót dưới thời Staline, đặc biệt là việc Bộ chính trị của Đảng cộng sản Liên Xô, ra một nghị quyết năm 1933, dưới sức ép của Staline, cấm người nông dân không được rời làng quê, đồng thời tiến hành trưng thu lương thực, kết quả là gần 6 triệu người Ucraina chết đói năm 1933. Năm 2006, Quốc hội Ucraina đã thông qua một đạo luật lên án nghị quyết này, coi đó là tội ác chống lại loài người.
Một hội nghị bàn tròn giữa các nhà lãnh đạo và những trí thức cấp tiến để tìm ra những giải pháp cho tương lai là điều cần thiết. Tuân theo các nguyên tắc đạo lí tốt đẹp của người Việt Nam cũng là điều bắt buộc phải làm. Đối thoại giữa nhiều nhóm người sẽ đem lại nhiều lợi ích, tất cả mọi người đều chiến thắng, những người cộng sản chút bỏ được một hệ tư tưởng không hợp thời và trở về với nhân dân, lịch sử ghi nhận công lao của họ, những người cấp tiến bắt tay cùng những người lãnh đạo cũ xây dựng đất nước. Nhân dân bầu ra những người đại diện, tất cả các tù nhân lương tâm được tự do và sum họp với gia đình. Tôi tin đó sẽ một trong những ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời mình.
Thành Đạt
(From: Tại dây)
------------------------
Havel sinh tại Praha trong một gia đình trí thức tư sản nổi tiếng của Tiệp Khắc. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, vì lý do lý lịch nên việc học của ông gặp trắc trở. Ông phải tự học và trở thành một nhà văn, nhà viết kịch. Năm 1968, ông bị cấm viết kịch và bắt đầu hoạt động chính trị.
(*) - Václav Havel, GCB, CC (5 tháng 10 năm 1936 – 18 tháng 12 năm 2011) là nhà văn và nhà viết kịch Séc. Ông là Tổng thống Tiệp Khắc cuối cùng và Tổng thống Séc đầu tiên.
Ông phải ngồi tù 5 năm vì là người đề xướng Tuyên ngôn Hiến chương 77.
Ông là lãnh tụ của cuộc Cách mạng Nhung (Tiệp Khắc) năm 1989, và là người đứng đầu Diễn đàn dân sự (Civic Forum), tổ chức chính trị đã giành thắng lợi trong cuộc tuyển cử tự do đầu tiên sau chế độ cộng sản.
Ông trở thành tổng thống đầu tiên của nước Tiệp Khắc dân chủ, sau đó được bầu là tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Czech.
Sau khi rút lui khỏi chính trường, ông vẫn ủng hộ các phong trào bất bạo động chống chế độ toàn trị ở các nước như Cuba và Trung Quốc và là hội viên Câu lạc bộ Madrid. Ông đã đoạt Giải Olof Palme năm 1989, Giải Hòa bình của ngành kinh doanh sách Đức năm 1989, Giải Ý thức toàn cầu năm 1996, Giải thưởng Hoàng tử xứ Asturias về Truyền thông và Nhân văn năm 1997. Về sự nghiệp văn học, ông đã đoạt Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu năm 1968, Giải Franz Kafka năm 2010. Ông mất ngày 18 tháng 12 năm 2011.
----------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét