Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2013

CLB Yêu Thơ - 13

Về bài thơ "Cự ngao đới sơn"


* TRẦN ĐỒNG ĐIỆN
              Theo báo Tiền phong (on line) ngày 7 tháng 6 năm 2013 có bài thông tin về nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai - Giám đốc Trung tâm Minh Triết Việt Nam, tại diễn đàn Kinh tế biển ở Hà Tĩnh, đã đưa ra bài "Cự Ngao Đới Sơn" trong "Bạch Vân Am Thi Tập" của danh sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Theo ông Nguyễn Khắc Mai, Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), hiệu là Bạch Vân cư sĩ, một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Đậu Trạng nguyên rồi làm quan dưới triều Mạc, ông được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công, dân gian quen gọi ông là Trạng Trình.
Người đời coi ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam, đồng thời lưu truyền nhiều câu sấm ký được cho là bắt nguồn từ ông, và gọi chung là "Sấm Trạng Trình". Bài "Cự Ngao Đới Sơn" như sau :
Ch Hán:

Nguyên văn bài thơ:
Bích tẩm tiên sơn triệt để thanh, 
Cự ngao đới đắc ngọc hồ sinh.
Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực,
Trước cước trào vô quyển địa thanh.
Vạn lý Đông minh quy bả ác,
Ức niên Nam cực điện long bình.
Ngã kim dục triển phù nguy lực,
Vãn khước quan hà cựu đế thành.

(Dịch nghĩa: Con rùa lớn đội núi
Nước biếc ngâm núi tiên trong tận đáy,
Con rùa lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra.
Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời
Bấm chân xuống, sóng cuồn cuộn không dội tiếng vào đất.
Biển Đông vạn dặm đưa về nắm trong bàn tay,
Muôn năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình.
Ta nay muốn thi thố sức phù nguy,
Lấy lại quan hà, thành xưa của nhà vua).

Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai dịch bài thơ này như sau :
Con rùa lớn đội núi
Núi tiên biển biếc nước trong xanh,
Rùa lớn đội lên non nước thành.
Đầu ngẩng trời dư sức vá đá,
Dầm chân đất sóng vỗ an lành.
Biển Đông vạn dặm dang tay giữ,
Đất Việt muôn năm vững trị bình.
Chí những phù nguy xin gắng sức,
Cõi bờ xưa cũ tổ tiên mình.

Tôi xin dịch lại bài thơ này như sau :

Cự ngao đới sơn
Máu ngâm đầu nhà trong tận đáy
Giải lớn dính đến tích hồ sinh
Mở miệng con người ích sức trời
Theo chân sóng chẳng giấu được tiếng
Vạn dặm biển đông qui kết khan
Ngàn năm nam cực cúng kìm lở
Ai nay muốn mở sức chính giúp
Vướng chối chuyển dòng quách vua cũ.

Trong câu thứ nhất, chữ (山) đây có nghĩa : đốc nhà, hồi nhà.
Trong câu thứ hai, chữ : “giải” () ở đây là phiên âm tiếng Việt, có nghĩa là giải thích.
Trong câu thứ ba, “đáo đầu thạch” ( ) là cách chơi chữ của Trạng Trình. Chữ “thạch” () quay ngược  thì chữ “khẩu” (-miệng) đứng trên chữ “nhân” (-con người).
Trong câu thứ tư, chữ “quyển” () có nghĩa là “cuốn, gói”.
Trong câu thứ năm, chữ “bả” () có nghĩa là “nuôi, kết nghĩa”.
Trong câu thứ sáu, chữ “long” () ở đây là phiên âm tiếng Việt, có nghĩa là “bong, tróc, lở”.
Trong câu thứ bẩy, chữ “ngã” () ở đây phiếm chỉ, không hẳn chỉ bản thân, mà chỉ người số ít, cũng có khi chỉ số nhiều.
Trong câu thứ tám, chứ “quan” () có nghĩa là “bộ phận làm chuyển động máy”, như trong “cơ quan” ( - bộ phận khởi động máy).
Nhắc đến đầu đề bài thơ “Cự ngao đới sơn”, tôi đã giữ nguyên phiên âm chữ Hán, vì không chắc có thể phiên dịch thành “Rùa lớn đội núi” có đúng ý người xưa hay không..
T.Đ.Đ
 
--------------------

* NGUYỄN KHĂC MAI

“Cự ngao đới sơn” – Hay Dự báo chiến lược 
của một thiên tài?
Trong Bạch Vân Am thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm có bài Cự ngao đới sơn:
Bích tẩm tiên sơn triệt để thanh,
Cự ngao đới đắc ngọc hồ sinh.
Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực,
Trước cước trào vô quyển địa thanh.
Vạn lý Đông minh quy bả ác,
Ức niên Nam cực điện long bình.
Ngã kim dục triển phù nguy lực
Vãn khước quan hà cựu đế thành.

Dịch nghĩa:
Con rùa lớn đội núi
Nước biếc ngâm núi tiên trong tận đáy,
Con rùa lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra
Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời
Bấm chân xuống, sóng cuồn cuộn không
dội tiếng vào đất
Biển Đông vạn dặm đưa về nắm trong
bàn tay,
Muôn năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình.
Ta nay muốn thi thố sức phù nguy,
Lấy lại quan hà, thành xưa của nhà vua.
Xin mạn dịch thơ như sau:
Núi tiên biển biếc nước trong xanh
Rùa lớn đội lên non nước thành.
Đầu ngẩng trời dư sức vá đá,
Dầm chân đất sóng vỗ an lành.
Biển Đông vạn dặm giăng tay giữ,
Đất Việt muôn năm vững trị bình,
Chí những phù nguy xin gắng sức,
Cõi bờ xưa cũ tổ tiên mình.
            Bài thơ có tuổi đã khoảng 500 năm mà bây giờ càng đọc càng thấy rất “kim nhật kim thì”, rất thời sự. Ta những tưởng như cụ Trạng Trình đang nói với chính chúng ta hôm nay. Bài thơ nguyên là để nói cái chí của cụ “Chí những phù nguy xin gắng sức”. Nhưng lại đọng trong đó một tư tưởng chiến lược – một dự báo thiên tài:
Biển Đông vạn dặm giăng tay giữ,
Đất Việt muôn năm vững trị bình,
            Vào những ngày này biển Đông đang trở thành một trường tranh chấp, quyết liệt đầy tính bá đạo, đầy mưu mô và hành động vừa gian ác, vừa xảo quyệt của chủ nghĩa Đại Hán, đang trong cơn hưng phát, thèm khát không gian sinh tồn, muốn bá chiếm biển Đông. Nào vạch đường lưỡi bò, nào xây dựng thành phố Tam Sa được tính toán xây dựng trên vùng chủ quyền của người khác, nào gọi thầu những lô thăm dò ngay trên vùng thuộc chủ quyền của Việt Nam. Nào ngang ngược, tàn bạo cắt cáp, rượt bắt tàu thuyền của ngư dân ta đang làm ăn trên vùng biển của nước mình...
             Hai câu thơ đầy tính dự báo chiến lược của Nguyễn Bỉnh Khiêm càng lay động từ đáy sâu của ý chí, của tâm hồn cái tâm thức biển đảo của người Việt. Từ ngàn xưa dân Việt đã là cư dân của văn hóa biển - đảo. Vạn dặm biển Đông phải quay về nắm lấy trong bàn tay. Làm được như vậy, mà phải làm được như vậy – làm chủ được biển Đông, thì muôn đời cõi trời, đất nước Namnày sẽ vững vàng trong cảnh thanh bình thịnh trị lớn lao!
Biển Đông vạn dặm giăng tay giữ
Đất Việt muôn năm vững trị bình
             Có thể nói đây là lời dự báo thiên tài, là lời truyền dạy của tổ tiên. Nó phải được cảm nhận để hành động trên quy mô cả dân tộc.
                Nói quay về giữ trong bàn tay có nghĩa là nói sự làm chủ của mình.
             Chúng ta sẽ và phải làm chủ biển Đông. Tất nhiên không thể và không phải với một thứ phản văn hóa, nghĩa là cũng muốn làm chủ với thứ tư tưởng bá quyền ngang ngược, độc chiếm. Tinh thần làm chủ của chúng ta là vừa biết kiên quyết bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình, kiên quyết chống lại sự xâm lăng nước lớn, mà cũng biết tôn trọng chủ quyền hợp pháp của các nước lân bang Đông Namá.
                Làm chủ biển Đông, mà tổ tiên đã truyền dặn, ngày nay phải thể hiện cả ba mặt. Thứ nhất là làm chủ những vấn đề về lịch sử, pháp lý, cả những gì liên quan đến sức mạnh vật chất, tinh thần, để bảo vệ chủ quyền biển đảo. Thứ hai là phải xây dựng một nền kinh tế biển hoàn chỉnh hữu hiệu. Thứ ba là phát triển khoa học và văn hóa biển. Cả ba lĩnh vực trên là ba khâu liên hoàn, làm tiền đề, nhân quả lẫn nhau. Bảo vệ chủ quyền để phát triển kinh tế biển. Muốn phát triển kinh tế biển và bảo vệ chủ quyền hữu hiệu lại phải coi trọng xây dựng các ngành khoa học biển và văn hóa biển. Đó chính là một năng lực mới của dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước.
              Tôi xin phép được nhắc lại ở đây những nét chính về một chiến lược biển Đông với 9 giải pháp lớn đã được đăng tải các phương tiện truyền thông:
1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của biển đảo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
2. Xây dựng lực lượng mạnh nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền và an ninh biển đảo
3. Đẩy mạnh điều tra cơ bản và phát triển khoa học công nghệ biển
4. Triển khai quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, x• hội đảm bảo quốc phòng, an ninh.
5. Quản lý nhà nước có hiệu quả hiệu lực đối với các vấn đề liên quan đến biển.
6. Xây dựng đầy đủ, đồng bộ hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển.
7. Phát triển nguồn nhân lực biển đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội vùng biển đảo và ven biển.
8. Tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế về biển
9. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh (đi đôi với tạo điều kiện để nhân dân tham gia giữ chủ quyền, làm kinh tế và xây dựng khoa học, văn hóa biển)
               Đọc lại bài thơ Cự ngao đới sơn với hai câu dự báo chiến lược thiên tài, chúng ta càng khâm phục cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bao đời, nhân dân gọi cụ như vậy vì cụ sống vào thời Lê – Mạc (1491-1585). Cụ đỗ Trạng nguyên, được phong tước Trình Tuyền hầu. Cụ đã để lại một di sản văn hóa đồ sộ, với cả ngàn bài thơ văn với những giá trị nhân văn, đầy chất triết lý, đầy tình yêu nước thương dân, là một kho Minh triết của muôn đời. Cụ còn là nhà dự
báo, tiên tri. Câu “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” là lời dự báo không chỉ cho Nguyễn Hoàng, cho Đàng trong mà là cả cho Việt Nam.
              Về hai chữ Việt Nam, cũng chính cụ là người đầu tiên dùng để chỉ tên đất nước, rồi được vua Gia Long dùng làm tên nước chính thức cho đến tận hôm nay.
Câu thơ cuối bài của cụ “Ta nay cũng muốn đem sức phò nguy” như nhắc nhở chúng ta nhiệm vụ làm chủ biển Đông hôm nay vậy./.
N.K.M

-------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét