Thứ Tư, 20 tháng 2, 2013

Nén hương nhân 300 năm ngày sinh QUAN NỘI SAI HOÀNG NGŨ PHÚC

Bài "Võ sáo" tại Lễ hội kỷ niệm Khởi nghĩa nông dân
Yên Thế  (Bắc Giang) 2012
    * BÙI VĂN BỒNG
BVB - Bước sang đầu năm 2013, năm con Rắn đen già nua vào kỳ lột xác, lại trùng với kỷ niệm 300 năm ngày sinh của quan Nội sai Hoàng Ngũ Phúc. Có một ‘sự cố’ là một vị thạc sĩ, Đại biểu Quốc hội, cùng họ và có cái tên na ná như ông đương danh Đại biểu Quốc hội Hoàng Hữu Phước bị thiên hạ ném đá tới tấp vì “thần khẩu hại sắc phàm”.
            Trong lịch sử Việt Nam, danh tướng thời Lê Trung Hưng Hoàng Ngũ Phúc hay Hoàng Ngũ Phước (1713-1776). Hoàng Ngũ Phúc xuất thân là hoạn quan, nổi tiếng là người có nhiều mưu kế. Trước ông giữ chức tả thiếu giám, sung giữ chức nội sai trong Hình phiên. Ông quê ở xã Phụng Công, huyện Yên Dũng, (hiện nay là thôn Tân Phượng, xã Tân Mỹ, huyên Yên Dũng (Bắc Giang). Hoàng Ngũ Phúc có công lớn trong việc đánh dẹp các cuộc  khởi ngĩz nông dân Đàng Ngoài và là tổng chỉ huy cuộc nam tiến đánh Đàng Trong, mở mang đất đai Bắc Hà tới  Quảng Nam.

         Trước đây, tôi đã nghe danh của ông trong lịch sử, một tướng dũng mãnh, có tài thời Hậu Lê. Đầu tháng 6 năm ngoái, trong bài tham luận của đại biểu Quốc hội, nhà sử học Dương Trung Quốc “Nhà nước gặp nhiễu sự, dân còn giúp nước?”, trong đó có trích dẫn câu nói nổi tiếng của quan Nội sai Hoàng Ngũ Phúc: “Nước lấy dân làm gốc, nước bình yên, nước hãy để dân yên. Dân lấy nước làm lòng, khi nhiễu sự dân ra gánh vác”.
             Tôi được biết, Hoàng Ngũ Phúc có công lớn với triều vua thời Lê Trung Hưng, trước đây ông đã từng giữ chức tả thiếu giám, sung giữ chức nội sai trong Hình phiên.
            Có lẽ, trong lịch sử Việt Nam, ngoài Lý Thường Kiệt, chỉ có Hoàng Ngũ Phúc (Quận Việp), là tướng xuất thân từ hoạn quan có tài kiêm văn võ và có nhiều quân công nhất. Tuy nhiên, do thành tích của ông chỉ trong nội chiến, mà lại chủ yếu “chiến” với phong trào nổi dậy khởi nghĩa của nông dân để phò vua Lê, vỗ về chúa Trịnh, nên người đời sau ít nhắc đến. Còn Lý Thường Kiệt lập công trong chống ngoại xâm nên Lý Thường Kiệt nổi tiếng hơn ông.
             Các thế hệ sau này cũng được truyền thông là ông làm tướng nghiêm túc, cẩn trọng, có uy tín. Khi lâm trận, ông là người quả đoán. Những người trưởng thành dưới tay ông như Hoàng Đình Bảo, Nguyễn Hữu Chỉnh sau đều là những người nổi tiếng, ngang dọc thiên hạ, dù đều không được trọn vẹn như ông. Sở dĩ ông được trọn vẹn toàn danh, ngoài hoàn cảnh khách quan (khi thế nước Đàng Ngoài còn mạnh) còn do ông là người biết ứng xử, tiến lui đúng lúc không chỉ trong chính trường mà cả ngoài chiến trường, không mang dã tâm như các hoạn quan Triệu Cao đời nhà Tần, Ngụy Trung Hiếu đời nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Về cuối đời, lối sóng phục thiện và những lời sám hối của ông lại được công tâm của người đời ghi nhận. Bản tính khiêm tốn, thành thực đối đã với người khác hết lòng trung tín, thưởng phạt quân sĩ nghiêm minh. Là người cầm quân dày dặn hơn 30 năm ngoài chiến trường, có lẽ hơn ai hết ông tự hiểu sức quân Trịnh khi tiến vào tới Quảng Ngãi như dây cung đã trương hết cỡ, không thể cố giành đất phương Nam, vì thế ông chủ động nhường Quảng Nam cho Tây Sơn hy vọng làm thoả mãn Tây Sơn.
           Không chỉ là người có công ổn định tình hình Bắc Hà, ông còn có công mở mang đất đai Bắc Hà xuống phía Nam, lần đầu tiên đánh bật chúa Nguyễn khỏi đất Thuận-Quảng, khôi phục lại cương thổ nhà Hậu Lê như thời Lê Sơ, điều mà bao thế hệ chúa Trịnh trước chưa làm được. Nhưng dường như cũng chỉ có ông là người hiểu mình và hiểu người, biết lui tiến ngoài mặt trận.
            Sau khi các tướng thế hệ ông và Bùi Thế Đạt mất, cha con chúa Trịnh quá say sưa vì chiến thắng, sinh kiêu ngạo, các tướng kế tục buông lỏng việc quân sự nên không giữ được cương thổ ông đã mở mang và cơ đồ họ Trịnh tiêu tan nhanh chóng. Ít ra Bắc Hà sẽ được bảo tồn lâu hơn. Một khi Tây Sơn không đánh chiếm được Bắc Hà, sẽ không phải phân tán lực lượng ra Bắc và khó có thể khẳng định họ Nguyễn còn cơ hội phục hồi ở Nam bộ hay không.
            Ông lo hết lòng phò vua Lê, chúa Trịnh, nhưng từ khi Trịnh Giang cầm quyền, chính sự Bắc Hà bắt đầu suy. Chúa Trịnh Giang tiêu dùng xa xỉ, thả cửa cho địa chủ cường hào ác bá chiếm đoạt ruộng đất, ức hiếp dân cày, thuế má một ngày một nhiều, sưu dịch một ngày một nặng khiến nhân dân Đàng Ngoài vô cùng cực khổ. Do đó nông dân Đàng Ngoài đồng loạt đứng lên khởi nghĩa.
             Từ năm 1737, nhiều cuộc khởi nghĩ nông dân liên tiếp nổ ra như: Nhà sư Nguyễn Dương Hưng nổi dậy khởi nghĩa ở Tam Đảo, Vũ Đình Dung nổi dậy ở Ngân Già (nên bị gọi là giặc Ngân Già), hậu duệ nhà Mạc (đã bị đổi họ) là Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển cùng Vũ Trác Oánh nổi dậy ở Hải Dương. Theo "Lê Triều dã sử", Nguyễn Cừ và Nguyễn Tuyển tin theo sấm Trạng Trình: "Phá điền thiên tử xuất, bất chiến tự nhiên thành" (Vỡ ruộng thiên tử ra, không đánh tự nhiên thành) nên dựng cờ khởi nghĩa. Tiếp đến là các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương, Lê Duy Mật, Nguyễn Dương Hưng; nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất, Nguyễn Hữu Cầu, tiếp tục tập hợp lực lượng và trở thành hai cánh quân khởi nghĩa lớn và làm hao binh tổn tướng của chúa Trịnh nhiều hơn cả.
           Ngoài những cuộc khởi nghĩa trên còn một số khởi nghĩa khác. Phong trào khởi nghĩa trải rộng khắp Bắc bộ vào tới Thanh Hóa, Nghệ An. Các cuộc khởi nghĩa phần đông lấy tiếng "phù Lê diệt Trịnh" làm cớ. Nhân dân mặt đông nam mang bừa vác gậy đi theo quân khởi nghĩa, toán nào đông thì kể có hàng vạn người, toán nào ít thì cũng có đến hàng trăm hàng nghìn người, rồi đi cướp phá ở các hương thôn và vây các thành ấp, quân triều đình đánh dẹp không được.

Nghi môn và đền thờ Quận Việp (Hoàng Ngũ Phúc)
 ở Tân Mỹ, Yên Dũng (Bắc Giang)                                                           
             Trong cung, Trịnh Giang suy thoái đạo đức, lối sống, sa vào tiền và gái, nhất là xa xỉ tư thông với cung nữ của cha, lại bị sét đánh hụt nên tin theo lời hoạn quan, làm nhà hầm ở luôn dưới đất để tránh sét, còn việc chính trị thì để cho các hoạn quan là bọn Hoàng Công Phụ chuyên quyền làm bậy. Trước tình hình đó, gia tộc họ Trịnh quyết định phế truất Giang, lập em Giang là Trịnh Doanh lên ngôi năm 1740. Là người có tài, Trịnh Doanh bắt đầu chỉnh đốn tình hình trong nước, ra tay đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa.
           Điều đã được ghi rõ trong sử sách là ông, quan Nội sai Hoàng Ngũ Phúc, đã có công đem binh dẹp cuộc khởi nghĩa nông dân của Nguyễn Hữu Cầu (Quận He). Vì ngày thường cướp được thóc gạo của thuyền buôn, đem cho dân nghèo, cho nên Quận He đi đến đâu cũng có người theo, muốn lấy bao nhiêu quân lương cũng có. Nguyễn Hữu Cầu được các sử gia đánh giá là người kiệt hiệt, nhiều mưu mẹo nhất trong số các thủ lĩnh khởi nghĩa lúc đó. Có khi bị vây hàng mấy vòng, ông chỉ một mình một ngựa phá vây ra, rồi chỉ trong mấy ngày lại có hàng vạn người đi theo.
            Tôi đọc sử ghi lại, biết ông đã hết lòng phù chúa Trịnh, đi dẹp các cuộc khởi nghĩa của nông dân. Dân khổ cực, oan khốc quá, phải đi đấu tranh giành quyền sống giữa thời của chế độ phong kiến mục nát, tham tàn, ông rất hăng hái phụng mệnh vua chúa đi dẹp loạn. Để chứng minh là một “trung thần”, ông đã mưu trí vây quân khởi nghĩa của quận He ở núi Đồ Sơn, buộc Nguyễn Hữu Cầu phải phá vây ra, rồi chớp thời cơ cho quân khởi nghĩa đánh về đánh lấy thành Kinh Bắc. Trấn phủ là Trần Đình Cẩm và Đốc đồng là Vũ Phương Đề đánh thua ở Thị Cầu phải bỏ ấn tính mà chạy; ở Thăng Long, được tin ấy rất lấy làm báo động. Ông liền đem binh về, cùng với Trương Khuông lấy lại thành Kinh Bắc, nhưng thế Nguyễn Hữu Cầu vẫn mạnh, phá quân của Trương Khuông ở làng Ngọc Lâm (thuộc huyện Yên Dũng), đuổi quân của quan thống lĩnh Đinh Văn Giai ở Xương Giang (thuộc huyện Bảo Lộc) rồi lại về vây dinh Thị Cầu. Trịnh Doanh sai Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng đem binh đến đánh bại Hữu Cầu ở Xương Giang. Năm 1751, Phạm Đình Trọng đem quân vào đánh phá trại. Hữu Cầu chạy đến làng Hoàng Mai thì bị bắt, đóng cũi đem về nộp chúa Trịnh và bị hành hình. Tương truyền trước khi chết ông có làm bài thơ "Chim trong lồng" nổi tiếng: “… Mặc bay đông ngữ, tây đàm / Chờ khi phương tiện dứt dàm vân lung / Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu Hán / Phá vòng vây làm bạn kim ô / Giang sơn khách diệc tri hồ?”. Đến năm 1751, cơ bản các cuộc khởi nghĩa bị dẹp yên, chỉ còn Lê Duy Mật và Hoàng Công Chất dựa vào nơi xa xôi, hiểm yếu vẫn cầm cự được tới đầu thời Trịnh Sâm.
           Ông cũng đã lập công với chúa Trịnh là đánh bại quân Tây Sơn vào tháng 2-1775 ở Cấm Sa (Quảng Nam). Nhưng ông cũng khá thức thời là khi ở tuổi 62 sức đã yếu, lại bị bệnh, nên tháng 7 năm 1775, cùng lúc bệnh dịch hoành hành, lại nghe tin Nguyễn Huệ thắng quân Nguyễn chiếm lại Phú Yên, quận Việp án binh lại. Ông biết Tây Sơn đã đủ thực lực đứng vững, quân Trịnh không thể diệt được, nhất là khi quân của ông đi xa nhà đã mệt mỏi và phát dịch bệnh. Theo đề nghị của Nguyễn Nhạc, ông đã phong chức cho Nguyễn Huệ làm “Tây Sơn hiệu tiền tướng quân”. Biết mình không thể đương nổi việc quân nữa, tháng 9 năm đó ông bí mật bàn với các tướng rút quân về. Hai tướng văn là  Nguyễn Nghiễm ( cha của Nguyễn Du) và Nguyễn Lệnh Tân bàn nên rút về Quảng Nam, và đặt quan trông giữ phần lãnh thổ chiếm được. Còn ông ệp chủ trương rút hẳn về Thuận Hóa, vùng đất Quảng Namsẽ tính sau. Ông sai người cầm thư đi gấp về Thăng Long xin ý kiến Trịnh Sâm. Trịnh Sâm xưa nay rất tin tưởng ông nên tán đồng đề nghị của ông. Quân Trịnh rút khỏi Quảng Ngãi lui hẳn về Phú Xuân.
               Nhờ công lao đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa, Hoàng Ngũ Phúc được phong làm Việp quận công, thường gọi là Quận Việp. Năm 1754, Thượng thư bộ Binh Phạm Đình Trọng chết sớm, Hoàng Ngũ Phúc trở thành vị tướng quan trọng nhất của triều đình. Sau đó ông xin từ chức về hưu, được phong làm quốc lão. Cuối đời, ông đã nhận ra rằng: Thực chất các cuộc khởi nghĩa vẫn có tính độc lập và chúa Trịnh, bên cạnh việc điều chỉnh chính sách để giảm bớt gánh nặng cho dân, đã biết cách tận dụng điểm yếu này để tiêu diệt từng cuộc khởi nghĩa. Việc Trịnh Doanh, tại từng thời điểm, cho thủ lĩnh này hay thủ lĩnh khác giảng hoà, phong chức chính là cách chia bó đũa để bẻ từng chiếc.
               Tôi nhắc lại sự bùng phát rầm rộ và diễn biến liên tục các cuộc khởi nghĩa của nông dân Đàng Ngoài vào thời Trịnh Giang, xuất phát từ nỗi bất bình của nhân dân bị bóc lột bần cùng. Tuy nhiên, theo các nhà sử học, sau đó các cuộc khởi nghĩa không có được sự liên hợp cần thiết để đủ sức đánh đổ chính quyền Lê -Trịnh. Và cũng xin nhắc lại điều ông nói là chuẩn xác: “Nước lấy dân làm gốc, nước bình yên, nước hãy để dân yên. Dân lấy nước làm lòng, khi nhiễu sự dân ra gánh vác”. Quan niệm của ông như vậy là đi đúng nghĩa khí nông dân nước Việt: “Có áp bức, có đấu tranh, đấu tranh để giành quyền sống, quyền làm người, quyền mưu cầu hạnh  phúc, đi tới ước mơ công bằng xã hội”.
              Có điều, chiến công truy dẹp khởi nghĩa nông dân của ông chẳng mấy ai ca ngợi. Ông dùng hết tài trí, sức lực vì sự “trung quân”, nhưng nếu xét cho cùng ông chưa phải là nhà “ái quốc”. Đúng ra, hoàn chỉnh tài đức của quan lại thời đó là phải đạt được cả hai tiêu chuẩn “trung quân và ái quốc”. Đã “ái quốc” thì phải biết thương dân, nhất là nông dân nghèo cần lao, chịu nhiều tầng áp bức của xã hội thời đó.
                Năm ngoái, năm thứ 12 của thế kỷ 21 này, có những vụ được gọi là “nông dân nổi dậy”, tuy không đến mức như khởi nghĩa ngày xưa, nhưng cũng là sự đấu tranh giữa cường quyền với lợi ích thiết thân, lợi ích hính đáng, cũng là sự đấu tranh cho công  bằng xã hội mang hình thức dân chủ, với các vụ đã làm rung động cả nước như: Tiên lãng, Văn Giang, Vụ Bản, Dương Nội, Cần Thơ…Nếu ông được người có chức quyền ra lệnh đàn áp nông dân chỉ vì nhóm lợi ích của quan quyền, của đại gia, liệu ông có vì hai chữ “trung quân” mà thẳng tay đàn áp nông dân nghèo hèn hay không? Cho nên, người ta vẫn nói, đấng minh quân, quan hiền đức  “chấp lệnh tại triều, hành sự tại tâm”. Cũng do đi dẹp nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân mà về cuối đời ông mới đúc kết được câu nói: “Nước lấy dân làm gốc… hãy để dân yên…”. Ông lưu danh hậu thế không phải vì những chiến công dẹp loạn, chiến công “chuyên chính với dân nghèo không ruộng đất”; những chiến công ấy đã có chúa Trịnh lộng quyền, lấn át vua ghi nhận, mà có lẽ bởi câu nói đúc kết chân lý ấy mà hậu thế nhớ đến ông. Quả là “hùm chết để da, người ta chết để tiếng”.
               Ông xa cõi trần đã 237 năm rồi, năm nay lại đúng vào 300 năm ngày sinh của ông, cho dù ông đã “trung quan” đến mức như “ngu trung”, gắng sức lập công phò Lê vệ Trịnh,  đàn áp các cuộc khởi nghĩa của nông dân, đánh Nam dẹp Bắc trong các cuộc tranh giành đất đai và quyền bính, nhưng câu nói của ông về lòng dân với nước vẫn còn nguyên giá trị cho đến hôm nay và mai sau.
            Đáng buồn là Hậu duệ đời nay của ông cũng có một nghị Phước khoe khoạng bằng thạc sĩ nhưng chưa có câu nói nào được thiên hạ ghi nhận, mà chỉ giỏi khoa môi múa mép phát ngôn bừa bãi như kẻ tâm thần. Ông Dương Trung Quốc, cho dù biết quan Nội sai Hoàng Ngũ Phúc chỉ có công với triều chính, nhưng lại có tội với nông dân nghèo, cũng lọc ra câu nói có giá trị của ông để minh truyền hậu thế. Vậy mà nghị Hoàng Hữu Phước nay lại chửi ông Dương  Trung Quốc như chửi mất gà! Ai nói ra cái căn bệnh tâm thần của ông nghị Phước đều bị hắn ta chửi tuốt, kể cả đài BBC, báo Tuổi trẻ…
              Nhưng dù sao, nhân kỷ niệm 300 năm ngày sinh của ông, kính chúc hương hồn của ông siêu thoát và có linh thiêng thì giúp cho xã hội Việt Nam sớm dẹp được nhanh gọn lũ quan tham khoác áo "cộng sản"; dẹp "một bộ phận không nhỏ có chức có quyền" suy thoái,biến chất; dẹp các a dua, a tòng sống cơ hội, hãnh tiến mà gian xảo như Hoàng Hữu Phước, Hoàng Quang Thuận, Trần Đăng Thanh, Nguyễn Thanh Tú ... gây lắm nhiễu sự, để nước Việt có một thể chế chính trị-xã hội thực sự dân chủ, công bằng, văn minh; để dân Việt được sống và mở mặt thẳng mày với thiên hạ. Bài viết này xin được coi như bông hoa kỷ niệm  ngày sinh nhật của ông, cũng coi như nén nhang thắp viếng lăng mộ của ông.
BVB

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét